Doãn
Mẫn , còn được viết Dzoãn Mẫn, là một nhạc sĩ nhạc tiền chiến nổi
tiếng, thuộc thế hệ tiên phong của tân nhạc Việt Nam.
Doãn
Mẫn sinh ngày 15 tháng 10 năm 1919 tại thôn Đoài làng Hoàng Mai (kẻ Mơ) (phường Hoàng
Văn Thụ) quận Hoàng Mai Hà Nội[2]. Cha của ông là Doãn Tính, một
viên chức ở ga Hàng Cỏ (xếp ga vào những năm 1930-1940),
nhưng mê âm nhạc dân tộc và chơi đàn bầu rất
hay. Được cha hướng dẫn, từ nhỏ Doãn Mẫn đã biết chơi đàn tứ và
một vài nhạc cụ truyền thống khác. Sau khi tốt nghiệp Trường nam Sư phạm, ông
vào làm thư ký tại bệnh viện
Bạch Mai.
Doãn Mẫn tự học nhạc qua sách tiếng Pháp. Ông cũng học một người Pháp tên
Banal, nguyên chỉ huy một dàn nhạc Quân đội Pháp, trong khoảng thời gian 4
tháng chủ yếu là về phối âm, phối khí.
Trước khi là nhạc sĩ, Doãn Mẫn từng là nhạc công biểu diễn nhiều nơi.
Cũng như nhiều thanh niên thời
đó, Doãn Mẫn bị dòng nhạc phương Tây, mà chủ yếu là nhạc Pháp cuốn hút. Ông
cùng Văn Chung và Lê Yênlập nhóm nhạc Tricéa tụ
tập trao đổi về âm nhạc và sáng tác. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ
A được viết tắt từ tiếng Pháp:Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: "Tuyển chọn
các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam". Cùng nghe những đĩa
nhạc của Tino Rossi, Josephine Baker, họ cùng nhau sáng tác
những bài hát của riêng mình: Văn Chung có Bóng
ai qua thêm, Đôi mắt huyền và Lê Yên có Bẽ bàng, Vườn xuân. Theo đánh giá của Phạm Duy, thì: Doãn Mẫn là người thành công
nhất trong 3 thành viên nhóm nhạc Tricéa. Ngay những năm đầu thời tân nhạc Việt
Nam, Doãn Mẫn đã sáng tác liên tiếp khoảng 10 ca khúc hay, như: Sao hoa chóng tàn, Biệt ly, Cô lái
thuyền, Tiếng hát đêm thu, Một hình bóng, Một buổi chiều mơ, Gió xa khơi, Nhạc
chiều, Trở lại cùng anh,... Nhạc
của Doãn Mẫn dành riêng cho Ghi-ta Hawaii,
loại nhạc cụ sở trường của ông, và thuần túy soạn trên âm giai thất cung (heptatonic, bảy nốt) của phương Tây,
mà không dùng âm giai ngũ
cung của nhạc dân tộc.
Doãn Mẫn sáng tác ca khúc đầu
tay Tiếng hát đêm thu năm 1937,
lời của Văn Chung. Sau đó nhiều nhạc phẩm khác lần lượt ra đời Gió thu(1937), Một buổi chiều thu (1939), và Biệt ly (1939).
Những năm cuối thập kỷ 1930, ga Hàng Cỏ Hà
Nội là nơi chia ly của nhiều đôi tình nhân, khi các thanh niên lên đường làm lính lê dương cho quân đội Pháp. Chứng kiến nhiều
cuộc chia tay ở đó, Doãn Mẫn đã viết bài Biệt
ly, nhạc phẩm nổi tiếng nhất của ông.
"Tôi viết Biệt ly năm
tôi vừa 20 tuổi. Hồi đó, cha tôi làm việc ở ga Hàng cỏ, Hà Nội. Nhà ở gần ga
nên tôi thường hay ra ga chơi, chứng kiến nhiều cuộc chia tay đầy nước mắt trên
sân ga, nhất là những đôi trai gái yêu nhau nhưng vì hoàn cảnh phải ly biệt.
Điều đó khơi dậy trong lòng tôi nhiều cảm xúc và tôi có ý định sáng tác một bài
hát về đề tài chia ly. Tôi nghĩ rằng tôi sáng tác bài Biệt ly với rất nhiều kỷ
niệm. Qua những cuộc chia ly mà tôi được chứng kiến ở sân ga Hà Nội, ở bến cảng
Hải Phòng đã cho tôi rất nhiều xúc động. Tôi đã dự kiến làm bài Biệt ly này từ
năm 1937, tức là năm tôi bắt đầu sáng tác. Nhưng mà rồi có nhiều trường hợp
khác cho nên tôi lại viết về chủ đề khác, cho đến năm 1939, có mấy việc dồn dập
đến, tôi trở lại cái đề tài này. Có những buổi biểu diễn ở các rạp, một phần
nữa do các anh em ở trường
Bưởi làm ca cảnh, cho
nên cái bài đó mới được phổ biến."
Doãn Mẫn từng giữ chức trưởng
phòng giáo vụ của Nhạc viện Hà
Nội, ông làm việc ở đó khoảng 20 năm. Thời gian đó ông không sáng
tác gì, vì theo lời của Doãn Mẫn, ông "phải
đi lo cả việc... học viên có con nhỏ không ăn được thì phải làm thế nào, chỗ
ăn, ở, nhà vệ sinh bẩn thỉu thì làm sao". Ngoài 70 tuổi, Doãn Mẫn có
viết nhạc trở lại.
Trong sự nghiệp của mình, Doãn
Mẫn viết khoảng 50 ca khúc, trong đó nhiều bài được đánh giá vượt thời gian như Biệt ly, Hương cố nhân.
Các
sáng tác
·
Bến
yêu đương
·
Cô
lái thuyền
·
Dũng
tiến
·
Gió
thu
·
Gió
xa khơi
·
Gọi
nghé trên đồng
·
Một
buổi chiều thu
·
Một
hình bóng
·
Nhạc
chiều
·
Nhắn
người chiến sĩ
·
Những
mầm sống
·
Sao
hoa chóng tàn
·
Sông
Thao
·
Tiếng
hát đêm thu
·
Trở
lại cùng anh
·
Từ
đâu tiếng tơ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét